Mầm bệnh viêm màng não mủ xuất hiện trong khoang dịch não tủy, làm tổn thương hệ thần kinh, gây ảnh hưởng nặng nề đến vận động và nhận thức. Viêm màng não là bệnh liên quan đến tình trạng nhiễm trùng màng bảo vệ não và tủy sống, do vi khuẩn xâm nhập vào máu, sau đó xâm nhập và phát triển ở màng não. Có nhiều loại vi khuẩn gây bệnh viêm màng não. Tuy nhiên trong số đó, Hib là loại vi khuẩn gây bệnh viêm màng não thường gặp nhất ở trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi. Sau đây là các biện pháp phòng ngừa bệnh cho trẻ mà bậc phụ huynh cần đặc biệt chú ý.
Sơ lược về bệnh
Viêm màng não mủ (VMNM) là tình trạng các màng bao bọc quanh hệ thần kinh trung ương bị vi khuẩn tấn công gây viêm và sinh mủ. Vi khuẩn gây viêm màng não có nhiều loại như: Haemophilus influenzae type b (Hib), phế cầu khuẩn, não mô cầu, tụ cầu khuẩn và các loại vi khuẩn gram âm. Trong đó, Hib là loại vi khuẩn gây bệnh viêm màng não mủ. Thường gặp nhất ở các trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi.
Hib là vi khuẩn thường được tìm thấy trong mũi họng ở trẻ nhỏ; lây qua đường hô hấp, dễ lây lan thành ổ dịch lớn. Đặc biệt là ở các nước chưa tiêm chủng ngừa Hib. Đáng lưu ý, khi chưa có vắc-xin phòng ngừa, vi khuẩn Hib gây viêm phổi nặng ở ¼ trẻ và gần ½ số trường hợp viêm màng não. Vi khuẩn Hib là nguyên nhân chủ yếu gây ra 2 bệnh nghiêm trọng là viêm phổi và VMNM ở trẻ nhỏ.
Mức độ nguy hiểm của bệnh viêm màng não mủ
VMNM là một căn bệnh cực kỳ nguy hiểm, có thể xuất hiện quanh năm; dẫn đến những hậu quả nặng nề cho trẻ, bệnh gây tử vong nhanh nếu không điều trị kịp thời. Trẻ mắc viêm màng não nếu không được phát hiện, điều trị đúng cách sẽ gặp phải các di chứng thần kinh vĩnh viễn. Như: tổn thương não tràn dịch dưới màng cứng (tích tụ chất lỏng giữa hộp sọ và não); não úng thủy (tích tụ chất lỏng bên trong hộp sọ dẫn đến sưng não); mất thính lực, câm, liệt tay chân, lác mắt, động kinh, sa sút trí tuệ, mất khả năng học tập…
Nghiêm trọng hơn, bệnh có thể gây tử vong do suy hô hấp nặng, phù não; các biến chứng nhiễm khuẩn nặng ở não, viêm phổi, viêm thận nặng, trạng thái mất não,… Tỷ lệ tử vong của viêm màng não do Hib là 15 – 20%. Cao hơn ở trẻ nhỏ (trẻ dưới 2 tháng) và ở những người bị suy giảm miễn dịch. Chỉ có khoảng 45% trẻ em phục hồi mà không để lại di chứng. 15-25% còn lại bị suy yếu thần kinh nhẹ. 20-40% bị suy yếu thần kinh nghiêm trọng và 10% gặp phải các di chứng thần kinh tàn phế nặng. Những biến chứng lâu dài khác mà trẻ gặp phải; bao gồm động kinh, liệt nửa người và giảm thính lực.
Một điều đáng báo động là dù căn bệnh này rất nguy hiểm. Nhưng tỷ lệ trẻ được phát hiện và nhập viện điều trị viêm màng não do Hib thường ở tình trạng đã nặng.
Viêm màng não rất dễ bị nhầm lẫn
Biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân bị viêm màng não (VMN) nói chung; thường phối hợp các triệu chứng sốt, kích thích và/hoặc li bì. Ở bệnh nhi trên 18 tháng thường có thêm dấu hiệu cổ cứng. Trẻ dưới 3 tháng tuổi dấu hiệu lâm sàng thường kín đáo hơn. Dấu hiệu lâm sàng của VMNM và VMN không gây mủ (chủ yếu do virus) thường giống nhau. Tuyy nhiên trong VMNM dấu hiệu lâm sàng thường nặng hơn. Và bệnh VMN do virus lại thường xảy ra theo mùa.
Có thể thấy biểu hiện lâm sàng VMNM ở trẻ em trên 18 tháng tuổi như sau: sốt, hội chứng nhiễm khuẩn: thường sốt cao đột ngột, có kèm theo long đường hô hấp trên, quấy khóc hoặc li bì, mệt mỏi, ăn kém, da tái xanh; hội chứng màng não: các dấu hiệu cơ năng: nôn tự nhiên và buồn nôn, đau đầu (ở trẻ nhỏ thường quấy khóc hoặc khóc thét từng cơn), táo bón (ở trẻ nhỏ thường gặp tiêu chảy). Có thể có biểu hiện sợ ánh sáng, nằm tư thế cò súng.
Các dấu hiệu thực thể: gáy cứng (ở trẻ nhỏ có thể gặp dấu hiệu cổ mềm); dấu hiệu Kernig, Brudzinsky, vạch màng não… dương tính. Trẻ nhỏ còn thóp thường có dấu hiệu thóp trước phồng hoặc căng, li bì, mắt nhìn vô cảm. Các biểu hiện khác: co giật, liệt khu trú, rối loạn tri giác – hôn mê, ban xuất huyết hoại tử hình sao (gặp trong nhiễm não mô cầu). Các dấu hiệu của sốc nhiễm khuẩn.
Dấu hiệu bệnh cần chú ý đối với trẻ sơ sinh và trẻ dưới 3 tháng tuổi
Riêng ở trẻ sơ sinh và trẻ dưới 3 tháng tuổi: Bệnh thường xảy ra trên trẻ đẻ non, nhiễm khuẩn ối, ngạt sau đẻ. Hội chứng nhiễm khuẩn thường không rõ rệt, có thể không sốt, thậm chí còn hạ thân nhiệt; hội chứng màng não cũng không đầy đủ hoặc kín đáo. Trẻ thường bỏ bú, nôn trớ, thở rên, thở không đều hoặc có cơn ngừng thở; thóp phồng hoặc căng nhẹ, bụng trướng, tiêu chảy, giảm trương lực cơ, mất các phản xạ sinh lý của trẻ sơ sinh và có thể co giật.
Lưu ý, dấu hiệu VMNM ở trẻ sơ sinh ban đầu thường không rõ ràng. Và rất khó phân biệt với các bệnh nhiễm trùng khác. Khi trẻ có một số triệu chứng như: chán ăn, bú kém, quấy khóc, dỗ không nín, đôi khi khóc thét lên, da bị vàng hoặc xanh tái, nhợt nhạt,… Bố mẹ cần lưu ý nên đưa trẻ đến cơ sở y tế để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.
Biện pháp ngăn ngừa bệnh viêm màng não mủ ở trẻ
Bằng cách: phát hiện sớm và điều trị triệt để các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp, bệnh nhiễm trùng tai – mũi – họng ở trẻ nhỏ. Giữ gìn vệ sinh cá nhân, dọn dẹp nơi ở thoáng mát, sạch sẽ. Vệ sinh tai – mũi – họng hằng ngày. Tiêm phòng vắc-xin viêm màng não mủ. Hiện nay ở Việt Nam đã có vắc-xin viêm màng não mủ do não mô cầu, phế cầu khuẩn và Haemophilus influenzae type b.
Điều trị viêm màng não mủ sơ sinh
Dùng kháng sinh
- Khi chưa biết rõ nguyên nhân, điều trị phối hợp 2 kháng sinh: Ampicillin liều 100mg/kg/24 giờ và Gentamicin liều 5mg/kg/24 giờ.
- 48 giờ sau chọc dò tủy sống lần 2, nếu dịch não tủy tốt hơn, lâm sàng tốt hơn thì tiếp tục sử dụng kháng sinh đã dùng. Nếu dịch não tủy tiến triển xấu, các triệu chứng lâm sàng không cải thiện thì thay đổi kháng sinh: Rocephin liều 80mg/kg/24 giờ với amikacin liều 15mg/kg/24 giờ hoặc acepim liều 80mg/kg/giờ với amikacin liều 15mg/kg/24 giờ.
- Khi có kết quả kháng sinh đồ: Điều trị theo kháng sinh đồ, thời gian điều trị kháng sinh 21 ngày, số lần kiểm tra trước não tủy nên hạn chế đến mức thấp nhất.
Điều trị hỗ trợ bệnh viêm màng não
- Hỗ trợ hô hấp và tuần hoàn
- Nuôi dưỡng đầy đủ
- Chống co giật
- Chống phù não bằng cách nằm đầu cao 30o, hạn chế nước, lượng dịch đưa vào cơ thể bằng 1⁄2 – 2/3 nhu cầu
- Điều chỉnh thăng bằng toan kiềm điện giải.
Theo dõi và khám lại
- Theo dõi vòng đầu và vòng ngực bệnh nhi hằng ngày
- Khám lại 3 tháng 1 lần để phát hiện di chứng thần kinh.