Hiện nay, béo phì được coi là một trong “tứ nan y của thời đại”. Tuy nhiên, nếu người bệnh quyết tâm thì bệnh béo phì cũng có thể được chữa khỏi hoàn toàn. Trẻ bị bệnh béo phì có xu hướng ăn nhiều, ngồi lâu, vận động chậm chạp, tự ti, kém tập trung trong học tập, khả năng tiếp thu kém,… Béo phì ở trẻ em là nguồn gốc của nhiều biến chứng bệnh. Một số triệu chứng nặng có thể kể đến khi trẻ trưởng thành như : hội chứng tim mạch, đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loạn tuần hoàn não, v.v… Vậy làm sao để phòng ngừa bệnh béo phì ở trẻ, mời bạn đọc theo dõi bài viết sau để có câu trả lời.
Nguyên nhân trẻ mắc bệnh thừa cân, béo phì
Tình trạng bệnh thừa cân – béo phì trên thế giới
Thừa cân – béo phì (TC-BP) là sự tích tụ mỡ bất thường, vượt quá mức làm ảnh hưởng đến sức khỏe. TC-BP gặp cả nam và nữ và các lứa tuổi. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 2016; có khoảng 41 triệu trẻ dưới 5 tuổi và 340 triệu trẻ em từ 5-19 tuổi bị TC-BP. Năm 1996 tỷ lệ trẻ em TC-BP tại Hà Nội và TP.HCM là 12%, sau 13 năm (năm 2009) tỷ lệ này 43%. Kết quả điều tra năm 2014-2015, tỷ lệ trẻ béo phì ở TP.HCM trên 50%. Còn khu vực nội thành Hà Nội khoảng 41%.
Để đánh giá trẻ bị TC-BP, ngoài việc quan sát hình thể của trẻ; thì số đo cân nặng và chiều cao cho phép ta nhận định một cách khách quan. Đối với trẻ em từ 0-5 tuổi: Trẻ coi là thừa cân khi chỉ số cân nặng theo chiều dài hoặc chiều cao dao động từ 2 độ lệch chuẩn (SD) đến dưới 3SD. Trẻ coi là béo phì khi cân nặng theo chiều dài hoặc chiều cao từ 3SD trở lên. Đối với trẻ em 5-19 tuổi: trẻ được coi là thừa cân khi chỉ số khối cơ thể theo tuổi (BMI-Zscore) từ +1 SD đến dưới 2SD. Trẻ được coi là béo phì khi BMI-Zscore từ 2SD trở lên.
Lý do trẻ mắc bệnh
Trẻ bị TC-BP chủ yếu là do dinh dưỡng bất hợp lý và ít hoạt động thể lực. Trẻ có cân nặng sơ sinh quá cao, suy dinh dưỡng thấp còi đều có nguy cơ TC-BP – Trẻ ăn nhanh, hay ăn vặt, thích ăn ngọt, uống nước giải khát, thức ăn nhanh (fast food), ăn nhiều vào buổi tối, đặc biệt trước khi đi ngủ. Ngoài ra còn do yếu tố di truyền hay ngủ ít.
Tác động tiêu cực của bệnh béo phì đối với cơ thể
Béo phì là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh tật của nhiều cơ quan, bộ phận trong cơ thể như:
Thoái hóa khớp, đau thắt lưng: Khi trọng lượng cơ thể tăng thì sức nặng đè lên các khớp càng lớn. Nhất là vùng lưng, khớp háng, khớp gối, cổ chân làm cho các khớp này sớm bị tổn thương và lão hóa nhanh. Hậu quả là gây đau đớn và khó khăn trong vận động, sinh hoạt hàng ngày của người bệnh.
Hệ nội tiết, chuyển hóa: Tình trạng kém dung nạp glucose, kháng insulin, nặng hơn là bệnh đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa mỡ máu, tăng acid uric gây bệnh gút…
Rối loạn tiêu hóa: Dễ bị sỏi trong gan, gan nhiễm mỡ sớm do tiêu thụ lượng lớn đường fructose và chất tạo ngọt high fructose corn syrup (HFCS) có trong nước có ga và các loại thực phẩm đóng hộp. Đường fructose và chất tạo ngọt HFCS đến gan sẽ chuyển hóa một phần thành acid béo gây tình trạng gan nhiễm mỡ.
Bệnh ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ
Khi bé bắt đầu đi học, sẽ dễ bị tự ti do bạn bè trêu ghẹo, chế giễu, dẫn đến chán chường, không muốn đi học. Dần dần các em trở nên thụ động, thiếu linh hoạt và cô đơn vì không có bạn. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến chứng trầm cảm.
Hệ tim mạch: Tăng huyết áp, xơ vữa mạch máu, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch não, hẹp tắc động mạch chi.
Hệ hô hấp: Giảm thông khí, ngừng thở khi ngủ là một biến chứng rất nguy hiểm.
Mắc bệnh mạn tính khi trưởng thành: Trẻ TC-BP có thể không có biểu hiện bệnh ở thời điểm hiện tại. Nhưng khi trưởng thành có nguy cơ mắc các bệnh mạn tính không lây. Như các bệnh tim mạch, đái tháo đường, gan nhiễm mỡ…
Cách đề phòng bệnh theo độ tuổi
Với trẻ ở độ tuổi 0-5
Cần có chế độ ăn hợp lý, tập thói quen cho trẻ ngủ sớm, ngủ đủ giấc. Tăng cường hoạt động thể lực qua các hoạt động ngoài trời ở sân trường, công viên và các khu giải trí khác. Bên cạnh đó cũng cần chú trọng dinh dưỡng hợp lý cho người mẹ trong thời gian có thai. Nuôi con bằng sữa mẹ và theo dõi tăng trưởng của trẻ bằng biểu đồ tăng trưởng; tại gia đình và trường học nhằm phát hiện sớm TC-BP để xử lý kịp thời.
Phòng tránh bệnh béo phì cho trẻ lứa tuổi từ 6-19
Việc thực hiện bổ sung sữa (không đường) vào bữa ăn học đường; đã giúp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và chiều cao ở một số nước. Không sử dụng thức ăn nhanh, chiên rán nhiều dầu/mỡ. Chương trình bữa ăn học đường đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và dinh dưỡng; nhằm giúp trẻ phát triển tối ưu về thể chất và tinh thần.
Thức ăn dành cho trẻ cần da dạng (đạt 5 trong 8 nhóm thực phẩm). Đảm bảo cung cấp đủ nguồn protein động vật và thực vật. Bữa ăn ở trường và ở nhà cần được phân phối hợp lý. Sử dụng muối i-od với một lượng ít dưới 4 gram/ngày. Không nên ăn mặn. Sử dụng nguồn thực phẩm sẵn có ở địa phương cho bữa ăn học đường. Uống nước chín (nước đã đun sôi). Trẻ cần được ngủ đủ trung bình 8-10 giờ mỗi ngày.
Giải quyết TC-BP là vấn đề của toàn xã hội, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình (phụ huynh) với nhà trường với toàn thể xã hội. Bao gồm các ngành nghề: truyền thông (tăng sự hiểu biết nhận thức về nguy cơ và hậu quả của TC-BP); sản xuất (công bố chất lượng sản phẩm); kinh doanh (căng tin nhà trường hạn chế hoặc không nên bán những thực phẩm có nguy cơ TC-BP); các cơ quan đoàn thể thuộc chính phủ và phi chính phủ (xây dựng luật, kiểm soát các hoạt động theo quy định).
Làm sao để trẻ đạt và duy trì được cân nặng khoẻ mạnh?
Ba mẹ cần giúp trẻ ăn các thực phẩm lành mạnh và hoạt động năng động hơn. Để thực hiện những thay đổi lối sống này có thể rất khó khăn ngay từ lúc bắt đầu. Sau đây là một số lời khuyên giúp phòng ngừa béo phì ở trẻ em:
- Cho trẻ ăn 5 phần trái cây hoặc rau quả mỗi ngày, hạn chế những loại trái cây ngọt nhiều năng lượng như chuối, sầu riêng, xoài… Nếu trẻ không thích rau hoặc trái cây, hãy bắt đầu từ từ. Ba mẹ làm gương cho trẻ bằng cách ăn những thực phẩm này để khuyến khích trẻ thử và làm theo.
- Không cho trẻ uống bất kỳ đồ uống/ thức ăn có đường. Đồ uống có đường bao gồm soda, đồ uống thể thao và tất cả các loại nước ép. Thức ăn có đường: bánh, kẹo.
- Hạn chế thức ăn nhiều dầu mỡ, chất béo đặc biệt là các loại chất béo no, chất béo trans trong các thức ăn nhanh, thức ăn chiên rán…
- Giới hạn “thời gian màn hình”, bao gồm xem TV, điện thoại, máy tính bảng, chơi trò chơi điện tử hoặc sử dụng máy tính hoặc thiết bị điện tử khác. Các chuyên gia khuyên rằng trẻ nhỏ (từ 2 đến 5 tuổi) không quá 1 giờ mỗi ngày trên màn hình. Trẻ lớn hơn cũng nên giới hạn thời gian màn hình không quá 2 giờ mỗi ngày.
- Cho trẻ hoạt động thể chất từ 1 giờ trở lên mỗi ngày. Điều này có thể bao gồm thực hiện một môn thể thao, nhảy múa hoặc chơi ngoài trời.